Chúng tôi đi dưới tán rừng già Trường Sơn hùng vĩ vào những ngày cuối tháng tư, trong âm vang cồng, chiêng của cộng đồng các dân tộc thiểu số vào mùa lễ hội mừng lúa mới to nhất trong năm. Không biết duyên hay nợ, sức quyến rũ của điệu nhảy tung tung da dá của đồng bào dân tộc Cơtu ở thôn Tà Vàng, xã A Tiêng (Tây Giang, Quảng Nam) buộc tôi phải dừng chân. Để rồi bất ngờ, câu chuyện về ngải yêu cứ ám ảnh mãi không thôi, giục chúng tôi đi tìm lời giải…
Người đàn bà bí ẩn
Làng Tà Vàng nằm lọt thỏm giữa thung lũng, dựa lưng vào núi Tà Lèn bên cạnh là con suối Mà Lời. Làng có khoảng 200 người của 53 hộ nhưng số người cao tuổi từ 60 trở lên chiếm đến ¼. Nắng gió của đại ngàn Trường Sơn đã giúp đồng bào Cơtu nơi đây trở nên rắn chắc, trụ vững trước thời gian và cả cái nghèo, cái khổ vẫn luôn đeo bám, lẩn khuất đến tận bây giờ.
Bà Ria Thị Điệp diễn tả cách vò, thổi ngải yêu trước khi “bỏ ngải” người khác giới. |
Giữa tiếng cồng, chiêng rộn rã, những cô gái Cơtu đang say đắm trong vũ điệu tung tung da dá trước nhà Gươl mừng mùa lúa mới, tôi chú ý một cụ bà ngồi tít đằng xa im lặng nhìn dân làng chơi hội. Vẻ hoang dại, bí ẩn của đại ngàn thể hiện rõ trên từng nét mặt của bà cuốn hút tôi một cách kỳ lạ. Nhờ sơn nữ Bhling Thị Bới (18 tuổi) làm thông dịch viên, tôi đến bắt chuyện với bà. Bà là Ria Thị Điệp, không nhớ chính xác chỉ mang máng hình như mình đã tròm trèm 70 mùa rẫy. Trò chuyện thật khó khăn, liên tục bị đứt khúc vì bà chẳng chú tâm mấy đến tôi, về câu chuyện của tôi. Giữa những đoạn đứt khúc đó, cô sơn nữ thì thầm “bà ta biết ngải đấy”. Giật mình, tôi nhờ Bhling Thị Bới hỏi bà có ngải không, trong bụng cũng không tin mấy. Bà lập tức quay sang tôi, tròn mắt nhìn, hỏi: “Mày cũng biết ngải à? Mày có muốn ngải không? Đi theo tao”.
Báu vật của làng
Đến lúc đó, chúng tôi lại tròn mắt nhìn nhau, ngạc nhiên, thích thú pha chút sợ hãi. Được nghe và sắp được xem một vật vốn thần bí của người Cơtu mà không phải ai cũng có được cơ duyên. Nhưng sợ hãi vì không hiểu tạo sao bà lại dễ dàng cho một người lạ như tôi đến gần một trong những bí mật lớn nhất của rừng? Bà về nhà lấy một con rựa và một cây gậy dài rồi ra hiệu cho chúng tôi đi theo. Vừa đi, chúng tôi lại vừa phải “trông chừng” lẫn nhau. Có cảm giác con đường này chỉ mình bà biết, không có lối mòn. Thậm chí khi trở về, Bới cũng thú nhận: “Giờ biểu tao một mình đi lại chỗ trồng cây đó, tao cũng chịu thôi”.
Vừa đi bà vừa dùng rựa vót cây gậy mang theo, như một sự… “làm phép” nào đó. Lại có vẻ như bà đang hối hận, bứt rứt vì đã lỡ để chúng tôi can dự vào bí mật của riêng bà. Nhiều lúc, bà bươn bả đi nhanh hơn như cố trốn thoát khỏi những kẻ đường đột là chúng tôi, khiến mấy lần Bới phải chạy lên kêu bà dừng lại chờ. Vượt qua ba bốn con suối, khoảng một giờ đường rừng lòng vòng, bà dừng lại bên một mô đất khá cao, gần bờ suối, đầy cây hoang cỏ dại mọc chen nhau, chúng tôi không nghĩ rằng mình đang đứng gần cây “ngải yêu”. Không vội cho chúng tôi xem cây ngải yêu của bà, mà một hồi lâu dò xét lưỡng lự như muốn tỏ ý hỏi về mục đích của chúng tôi. Bới thì thầm với bà: “Chúng nó đứa nào cũng đã có vợ, có chồng cả rồi, bà yên tâm đừng ngại”.
Bà Điệp lấy rựa rẽ cỏ xung quanh một lùm cây rậm, lộ ra một cây cỏ thấp tè, thân cao khoảng một tấc, nhiều lá dài bằng chiếc đũa. Đó chính là cây “ngải yêu, ngải thương” mà dân làng Cơtu gọi là cây Amér. Bằng động tác, bà diễn tả lại hành động bỏ ngải như thế nào cho tôi xem. Lá ngải sau khi được hái về được vò nát trong lòng bàn tay, rồi chà xát lên người “đối tượng” mà mình muốn bỏ ngải. Khi đang giữ ngải, có gặp ai dọc đường chào hỏi, chỉ trả lời qua quýt rồi bỏ đi. Gặp người mình yêu thì nói chuyện và tìm cách xoa lên, nói chuyện thật lâu, cười thật nhiều. Vài lần như vậy ngải sẽ vận vào người mình yêu.
Cây ngải yêu của bà Điệp.
Họ sẽ yêu mê mẩn suốt đời, không gì bứt ra được. Yêu đến mù quáng dẫu người đó đã có vợ có chồng hay là ai đi chăng nữa. Nhưng sẽ “dở khóc dở cười” nếu lỡ để ngải dính vào người mà mình không thích, và hậu quả là kinh hoàng nếu ngải dính vào người thân khác giới. Có một câu chuyện bi kịch đến nay vẫn còn lưu truyền trong cộng đồng dân làng Cơtu miền tây bắc Quảng Nam. Ông Zơ Rum Sâm, 65 tuổi, ở thôn Tà Vàng, buồn rầu nhớ lại: “Năm đó, ở làng Prao (huyện Đông Giang), tất cả các giống sắn trong bản không nảy mầm, “cắm xuống đất vài ngày là đem lên đốt được”. Ấy là vì… ngải yêu mà ra (!?). Trong làng có cô gái lấy chồng nhưng không chịu ăn nằm với chồng. Người mẹ chồng bèn đi xin Amér về để cho con trai “bỏ ngải” vợ mình. Nào ngờ, ngải quá mạnh, lại “phát huy tác dụng” khi chưa đúng thời điểm, vận vào hai mẹ con, khiến bi kịch xảy ra.
Chuyện trái thiên lý này động đến Giàng nên làng Prao bị phạt như vậy đó!” (!?). Bà Điệp bảo rằng thời con gái, bà đã bỏ ngải cho chồng mình và cho ngải để con gái lấy chồng. Ngoài ra, bà chỉ cho ngải đôi ba người con gái khác ở làng Rơ Bluop (xã A Tiêng, Tây Giang, Quảng Nam). Nghe đâu họ đều dùng ngải đạt ý nguyện, nên duyên và sống hạnh phúc.
0 nhận xét: